Học thuyết tạng phủ

26/05/2024
    • A-Định nghĩa

      1. Vị trí: Học thuyết tạng phủ và học thuyết kinh lạc là bộ phận quan trọng trong lý luận y học cổ truyền nhằm nghiên cứu sự hoạt động của các tạng, phủ, hệ thống kinh lạc và các bộ phận khác.
      2. Nội dung gồm:
      • Học thuyết tạng phủ: các tạng tâm, can, tỳ, phế, thận; các phủ tiểu trường, đại trường, vị, đởm, bàng quang, tam tiêu; các hoạt động về tinh, khí, thần, huyết, tân dịch.
      • Hệ thống kinh lạc: Cấu tạo và tác dụng của hệ kinh lạc.
      1. Tinh, khí, huyết, tân dịch và thần là cơ sở vật chất cho sự hoạt động của tạng phủ.
    • B-Tinh khí huyết tân dịch và thần

      • I-Tinh

        Tinh là cơ sở vật chất của sự sống con người và các loại hoạt động cơ năng của cơ thể. Nguồn gốc của tinh: do bố mẹ đem lại gọi là “tinh tiên thiên” và do chất dinh dưỡng của đồ ăn tạo ra gọi là “tinh của hậu thiên”. Tinh của hậu thiên do tỳ vị vận hoá phân bố ở các tạng phủ nên còn gọi là “tinh của tạng phủ”. Hai nguồn tinh thiên và hậu thiên bổ sung cho nhau tham gia vào việc sinh dục và phát dục của cơ thể.

      • II-Khí

        • 1-Định nghĩa

          Khí là một thành phần cấu tạo của cơ thể, là chất cơ bản duy trì sự sống của con người, có tác dụng thúc đẩy huyết và các công năng tạng phủ kinh lạc hoạt động. Khí ở khắp nơi, ngoài tác dụng chung như trên, còn mang tính chất của các bộ phận mà nó trú ngụ: Như thận khí, can khí, vị khí, kinh khí v.v... Nguồn gốc của khí do tiên thiên hoặc hậu thiên tạo thành và người ta hay nói đến 4 loại: Nguyên khí, tông khí, dinh khí và vệ khí.

        • 2-Nguyên khí

          Nguyên khí còn gọi là sinh khí, chân khí, khí của chân nguyên, do tinh của tiên nhiên sinh ra, được tàng chữ ở thận, sau này được khí của hậu thiên bổ sung không ngừng. Thông qua tam tiêu, nguyên khí đến và kích thích thúc đẩy các tạng phủ hoạt động và quá trình sinh dục và phát dục của cơ thể. Nguyên khí đầy đủ thì thân thể khoẻ mạnh, trái lại thì tạng phủ sẽ suy kém, sức chống đỡ với bệnh tật yếu.

        • 3-Tông khí

          Tông khí do khí trời và chất tinh vi của đồ ăn do tỳ vận hoá kết hợp tạo thành. Sự vận hành của khí, huyết, hô hấp, tiếng nói, hoạt động tay chân đều có quan hệ mật thiết với tông khí. Tông khí giảm sút còn gây ra ứ huyết.

        • 4-Dinh khí (Doanh khí)

          Dinh khí là do chất tinh vi của đồ ăn thức uống được tỳ vận hoá tạo thành, đi vào mạch thành một bộ phận của huyết dịch, theo huyết dịch đi toàn thân. Dinh khí có tác dụng sinh ra huyết và dinh dưỡng toàn thân.

        • 5-Vệ khí

          Vệ khí bắt nguồn từ tiên thiên, do dương khí của thận sinh ra, được bổ sung không ngừng bằng các chất tinh vi của đồ ăn do tỳ vị vận hoá ra, hoạt động được do sự tuyên phát của phế. Vì vậy vệ khí gốc ở hạ tiêu (thận) được nuôi dưỡng do trung tiêu (tỳ), khai phát ở thượng tiêu (phế). Vệ khí đi ngoài mạch, phân bố toàn thân, trong thì làm ấm nội tạng, ngoài thì làm ấm cơ nhục, da lông, làm đóng mở tuyến mồ hôi. Vệ khí có nhiệm vụ bảo vệ cơ thể chống ngoại tà xâm nhập.

      • III-Huyết

        Huyết được tạo thành do chất tinh vi của thuỷ cốc được tỳ vị vận hoá ra do dinh khí đi trong mạch và do tinh được tàng trữ ở thận sinh ra. Vì vậy huyết có quan hệ mật thiết với các tạng tỳ, phế, thận. Được khí thúc đẩy, huyết đi theo mạch nuôi dưỡng toàn thân, bên trong là ngũ tạng lục phủ, bên ngoài là cơ nhục, cân cốt. Huyết đầy đủ thì cơ thể khoẻ mạnh

      • IV-Tân dịch

        Tân dịch là chất nước của cơ thể, chất trong là tân, chất đục là dịch. Tân dịch cũng do chất dinh dưỡng đồ ăn hoá ra, nhờ sự khí hoá của tam tiêu đi vào các tạng phủ, khớp xương, nước bọt, dịch dạ dầy v.v... Tân đi toàn thân, tưới và nuôi dưỡng các tạng phủ, cơ nhục, kinh mạch, da và tạo thành huyết dịch, không ngừng bổ sung nước cho huyết dịch. Dịch bổ sung cho tinh, tuỷ, làm khớp xương cử động dễ dàng, làm nhuận da lông,

      • V-Thần

        Thần là sự hoạt động về tinh thần, ý thức và tư duy của người ta, là biểu hiện bên ngoài của tinh, khí, huyết và tân dịch. Thần còn là sự biểu hiện bên ngoài của tình trạng sinh, lý, bệnh lý các tạng phủ trong cơ thể. Tinh và khí là cơ sở vật chất của thần, do tiên thiên và hậu thiên sinh ra. Trong cơ thể khí huyết thịnh vượng, ngũ tạng lục phủ điều hoà thì tinh thần sung túc. Trong chẩn đoán, tình trạng tinh thần của người bệnh có giá trị chẩn đoán rất lớn để đánh giá tiên lượng bệnh: " còn thần thì sống, mất thần thì chết".

    • C-Ngũ tạng

      • I-Định nghĩa

        Tạng là các bộ phận cơ thể có nhiệm vụ chuyển hoá và tàng chữ tinh, khí, thần, huyết, tân, dịch,. Có 5 tạng: tâm (phụ là tâm bào lạc), can, tỳ, phế, thận,

      • II-Tâm

        • 1-Nội dung

          Tạng tâm đứng đầu các tạng, có tâm bào lạc bảo vệ bên ngoài, phụ trách các hoạt động về thần chí, huyết mạch, khai khiếu ra lưỡi biểu hiện ra ở mặt.

        • 2-Chủ thần chí

          Thần chí là các hoạt động về tinh thần, tư duy, Tinh và huyết là cơ sở cho hoạt động tinh thần, mà tâm lại chủ về huyết nên tâm cũng chủ về chí, tâm là nơi cư trú của thần vì vậy nói là "tâm tàng thần". Tâm khí và tâm huyết đầy đủ thì tinh thần sáng suốt, tỉnh táo. Tâm huyết không đầy đủ xuất hiện các triệu chứng bệnh như: hồi hộp, mất ngủ, hay mê, hay quên. Tâm huyết có nhiệt thì có thể thấy mê sảng, hôn mê v.v...

        • 3-Chủ về huyết mạch, biểu hiện ra ở mặt

          Tâm khí thúc đẩy huyết dịch trong mạch đi nuôi dưỡng toàn thân. Nếu tâm khí đầy đủ, huyết dịch vận hành không ngừng, toàn thân được nuôi dưỡng tốt. biểu hiện ỏ nét mặt hồng hào tươi nhuận, trái lại tâm khí bị giảm sút, sự cung cấp huyết dịch kém đi thì sắc mặt xanh xao, có khi huyết dịch bị ứ trệ gây các chứng mạch sáp, kết lại, ứ huyết v.v.,.

        • 4-Khai khiếu ra lưỡi

          Biệt lạc của tâm thông ra lưỡi, khí huyết của tâm đi ra lưỡi để duy trì hoạt động của chất lưỡi. Trên lâm sàng xem chất lưỡi để chẩn đoán bệnh ở tâm: như chất lưỡi đỏ là tâm nhiệt, chất lưỡi nhạt là tâm huyết hư, chất lưỡi xanh có điểm ứ huyết là huyết ứ trệ v.v...

        • 5-Tâm bào lạc

          Là tổ chức bên ngoài của tâm để bảo vệ không cho tà khí xâm nhập vào tâm, Trên thực tế lâm sàng các triệu chứng của bệnh của tâm và tâm bào lạc giống nhau: như trong bệnh truyền nhiễm có sốt (ôn bệnh) chứng hôn mê được gọi là "nhiệt nhập tâm bào" giống như chứng hôn mê của tâm nhiệt.

        • 6-Khác

          Ngoải ra người ta còn chú ý đến quan hệ sinh khắc, biếu lý với các tọng phủ khác: tâm hoả sinh tỳ thổ, khắc phế kim, tâm và tiểu trường có quan hệ biểu lý.

      • II-Can

        • 1-Nội dung

          Can chủ về tàng huyết, chủ về sơ tiết, chủ cân, khai khiếu ra mắt, vinh nhuận ra móng tay, móng chân.

        • 2-Chủ về tàng huyết

          Tàng huyết là tàng trữ và điều tiết lượng máu trong cơ thể. Lúc nghỉ ngơi, lúc ngủ nhu cầu về huyết dịch ít, máu được tàng trữ ở can; trái lại lúc hoạt động, lao động nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể đòi hỏi cao hơn, can lại bài xuất khối lượng máu dự trữ để cung cấp kịp thời.

          Chức năng tàng huyết của can bị rối loạn sẽ ảnh hưởng đến các tạng phủ và sinh các triệu chứng bệnh: như can huyết không đầy đủ thấy hoa mắt, chóng mặt, chân tay co quắp, kinh nguyệt ít có thể bế kinh v.v... Can khí bị xúc động, huyết đi lạc đường, có thể thấy các hiện tượng xuất huyết như nôn ra máu, cháy máu cam, băng huyết, rong huyết v.v...

        • 3-Chủ sơ tiết

          Sơ tiết là sự thư thái, thông thường còn gọi là "điều đạt". Can khí chủ về sơ tiết giúp cho sự vận hành của khí các tạng phủ được dễ dàng, thông suốt, thăng giáng được điều hòa, Can khí sơ tiết kém sẽ có những biểu hiện bệnh lý đặc biệt ở tình chí và sự tiêu hoá. Về tình chí, ngoài tạng tâm đã nêu ở trên, còn do tạng can phụ trách. Can khí bình thường, thì khí huyết vận hành điều hoà, tinh thần thoải mái. Trái lại can huyết sơ tiết kém sẽ gây tình trạng khí bị uất kết hay hưng phấn quá độ. Can khí uất kết biểu hiện: ngực sườn đầy tức, u uất, hay thở dài, kinh nguyệt không đều, thống kinh v.v... Can khí xung thịnh gây cáu gắt, hoa mắt, chóng mặt, ù tai v.v... Về tiêu hoá: sự sơ tiết của can có ảnh hưởng lớn đến sự thăng giáng của tỳ vị. Nếu can khí uất kết hay can khí hoành nghịch có thể thấy các triệu chứng đau cạnh sườn, đau thượng vị, ăn kém, ợ hơi, ợ chua, ỉa chảy gọi là chứng "can tỳ bất hoà" hay "can vị bất hoà”. v.v...

        • 4-Chủ cân vinh nhuận ra móng tay móng chân

          Cân là cân mạch gồm các khớp, gân, cơ, phụ trách việc vận động của cơ thể. Nói can chủ cân tức là can nuôi dưỡng các cân bằng huyết của can (can huyết. Can huyết đầy đủ, cân mạch được nuôi dưỡng tốt, vận động tốt, trái lại can huyết hư sẽ gây các chứng tê bại, chân tay run, co quắp, teo cơ, cứng khớp v.v... Nếu sốt cao, huyết dịch hao tổn không dưỡng cân gây co giật, tay chân co quắp. Móng tay móng chân là chỗ thừa của cân mạch, nên tình trạng thiếu đủ của can huyết sẽ có những biểu hiện hồng nhuận cứng cáp hay nhợt tái thay đổi hình dạng (móng tay uốn khum).

        • 5-Khai khiếu ra mắt

          Tinh khí của ngũ tạng thông qua huyết dịch đều đi lên mắt, nhưng chủ yếu là do tạng can vì can tàng huyết và kinh can đi lên mắt.

          Can khí thực do phong nhiệt gây chứng mắt đỏ, sưng, đau; can huyết hư gây quáng gà, giảm thị lực. Can phong nội động gây miệng méo, mắt lác.v. V...

        • 6-Khác

          Ngoài ra can mộc còn sinh tâm hoả, khắc tỳ thổ và có quan hệ biểu lý với đởm.

      • III-Tỳ

        • 1-Nội dung

          Tạng tỳ ở trung tiêu, chủ về vận hoá nước và đồ ăn, thông huyết, chủ cơ nhục và tứ chi, khai khiếu ra miệng, vinh nhuận ở môi.

        • 2-Chủ về vận hoá

          1. Vận hoá đồ ăn: là sự tiêu hoá, hấp thu và vận chuyển các chất dinh dưỡng của đồ ăn. Sau khi tiêu hoá, các chất tinh vi được tỳ hấp thu và chuyển vận lên phế, phế đưa vào tâm mạch để đi nuôi dưỡng các tạng phủ, tứ chi, cân, não.

            Công năng vận hoá đồ ăn của tỳ mạnh gọi là sự "kiện vận" thì sự hấp thu tốt trái lại nếu tỳ mất "kiện vận" sẽ gây các chứng rốì loạn tiêu hoá: ăn kém, ỉa chảy, mệt mỏi, gầy v.v...

          2. **Vận hoá thuỷ thấp: Tỳ đưa nước đến các tổ chức cơ thể để nuôi dưỡng, sau đó chuyển xuống thận ra bàng quang bài tiết ra ngoài. Như vậy việc chuyển hoá nước trong cơ thể do sự vận hoá của tỳ phối hợp với sự túc giáng của phế và sự khí hoá của thận.

            Sự vận hoá thuỷ thấp của tỳ kém sẽ gây chứng đàm ẩm, khiến cho nước tràn ra tứ chi gây phù thũng, xuống đại trường gây ỉa chảy, đến khoang bụng thành cổ trướng v.v...

        • 3-Thống huyết

          Thống huyết hay còn gọi là nhiếp huyết có nghĩa là quản lý, khống chế huyết. Sự vận hoá đồ ăn của tỳ là nguồn gốc của khí và huyết, nhưng tỳ còn thống huyết. Tuỳ khí mạnh huyết sẽ đi trong mạch, được khí thúc đẩy đi nuôi dưỡng cơ thể, trái lại tỳ khí hư sẽ không thông được huyết, huyết sẽ ra ngoài gây các chứng xuất huyết như rong huyết, đại tiện ra máu lâu ngày v.v…

        • 4-Chủ cơ nhục, Chủ tứ chi

          Tỳ đưa các chất dinh dưỡng của đồ ăn đến nuôi dưỡng cơ nhục, nếu tỳ khí đầy đủ sẽ làm cho cơ nhục rắn chắc, tứ chi nhẹ nhàng linh hoạt; trái lại nếu tỳ khí yếu sẽ làm thịt mềm, trương lực cơ giảm gây tứ chi mệt mỏi, gây các chứng thoát vị: như sa trực tràng, sa sinh dục, sa dạ dày v.v…

        • 5-Khai khiếu ra miệng, vinh nhuận ra môi

          Khai khiếu ra miệng là nói về sự ăn uống, khẩu vị. Tỳ mạnh thì muốn ăn, ăn ngon miệng, nếu tỳ hư thì chán ăn, miệng nhạt. Tỳ chủ về cơ nhục, lại khai khiếu ra miệng nên biểu hiện sự vinh nhuận ra môi: tỳ mạnh thì môi hồng nhuận, tỳ hư thì môi thâm xám, nhạt màu.

        • 6-Khác

          Tỳ còn sinh ra phế kim, khắc thận thuỷ có quan hệ biểu lý với vị.

      • IV-Phế

        • 1-Nội dung

          Phế chủ hô hấp, chủ khí, có tác dụng tuyên phát và túc giáng, khai khiếu ra mũi và bên ngoài hợp với bì mao (da lông).

        • 2-Chủ khí, chủ hô hấp

          Phế là nơi trao đổi khí: hít thanh khí, thải trọc khí nên nói phế chủ hô hấp

          Phế chủ khí, vì phế có liên quan đến tông khí. Tông khí được tạo thành bởi khí của đồ ăn do tỳ khí đưa tới kết hợp với khí trời do phế khí đưa tới, 'tông khí được đưa vào tâm mạch đi toàn thân dinh dưỡng tổ chức. Phế khí bình thường, đường hô hấp thông, thì hơi thở điểu hoà; trái lại phế khí hư kém xuất hiện chứng khó thở, thở nhanh, tiếng nói nhỏ, người mệt mỏi không có sức v.v...

        • 3-Chủ về tuyên phát và túc giáng

          1. **Tuyên phát: có ý nghĩa là thúc đẩy sự tuyên phát của phế (gọi tắt là sự tuyên phế) thúc đẩy, khí huyết, tân dịch phân bố ra toàn thân, bên trong đi vào các tạng phủ, kinh lạc, ngoài đi tới, bì mao, cơ nhục, không nơi nào không đến. Nếu phế khí không tuyên sẽ gây sự ủng trệ có các triệu chứng như tức ngực, ngạt mũi, khó thở v.v...
          2. **Túc giáng là đưa phế khí đi xuống: phế khí đi xuống là thuận, nếu phế khí nghịch lên trên uất tại phế sẽ có các triệu chứng: khó thở, suyễn tức v.v...
        • 4-Chủ bì mao, thông điều thuỷ đạo

          1. Bì mao là phần ngoài cùng của cơ thể gồm da, lông, tuyến mồ hôi, là nơi tà khí bên ngoài bắt đầu xâm nhập vào cơ thể. Tác dụng tuyên phát phế đem các chất dinh dưỡng cho bì mao.

            Vệ khí cũng tuyên phát ra bì mao để chống đỡ ngoại tà. Vì vậy khi có bệnh ở phần biểu thường thấy xuất hiện các chứng ở vệ và phế phối hợp với nhau như ngoại cảm phong hàn: sợ lạnh, sợ gió, ngạt mũi, ho v.v...

            Nếu phế khí hư yếu, không tuyên phát ra bì mao làm da lông khô sáp, lưa thưa đưa tới cơ năng bảo vệ của bì mao bị giảm sút nên dễ bị cảm mạo v.v...

          2. Phế còn tác dụng thông điều thuỷ đạo. Nhờ tác dụng tuyên phát và túc giáng, nước trong ở cơ thể được bài tiết ra bằng đường mồ hôi, hơi thở, đại tiện nhưng chủ yếu là do nước tiểu. Phế khí đưa nước tiểu xuống thận, ở thận nước tiểu được khí hoá một phần đưa xuống bàng quang và bài tiết ra ngoài.

            Trên lâm sàng, bệnh phù thũng do phong thuỷ (viêm cầu thận do lạnh) được chữa bằng phương pháp tuyên phế lợi niệu.

        • 5-Khai khiếu ra mũi, thông với họng, chủ về tiếng nói

          Mũi là hơi thở của phế, để thở và ngửi thông qua tác dụng của phế khí. Phế khí bình thưòng thì sự hô hấp điều hoà, nếu phế khí trở ngại như ngoại tà xâm nhập thì gây ngạt mũi, chảy nước mũi, không ngửi thấy mùi, phương pháp chữa bệnh vẫn lấy tuyên phế là chính. Phế còn chủ về tiếng nói và thông ra họng. Bệnh ở phế luôn thấy xuất hiện các chứng ở họng và tiếng nói và thông ra họng mất tiếng v.v...

        • 6-Khác

          **Phế còn sinh thận thuỷ, khắc can mộc và có quan hệ biểu lý với đại trường

      • V-Thận

        • 1-Nội dung

          Thận chủ về tàng tinh, chủ cốt tuỷ, chủ về sinh dục và phát dục của cơ thể, chủ nạp khí, chủ thuỷ, khai khiếu ra tai, tiền âm, hậu âm và vinh nhuận ra tóc.

        • 2-Thận tàng tinh, chủ về sinh dục và phát dục của cơ thể

          Tinh của tiên thiên và tinh của hậu thiên đều được tàng trữ ở thận gọi là thận tinh. Tinh biến thành khí nên còn có thận khí. Thận tinh còn gọi là thận thuỷ, thận âm, nguyên âm, chân âm; Thận khí còn gọi là thận hoả thận dương, nguyên dương, chân dương, mệnh môn hoả. Thận tinh và thận khí quyết định sự sinh dục và phát dục của cơ thể từ lúc nhỏ tới già như mọc răng, tuổi trưởng thành sinh con cái (gọi là thiên quý thịnh) và lão suy (thiên quý suy). Như trong sách Nội kinh có nói: "con gái 7 tuổi thì thiên quý thịnh, răng thay tóc dài, 14 tuổi thì thiên quý đến mạch nhâm thông với mạch xung, vì vậy lúc đó ngưòi con gái thấy kinh. Thường đời người con gái có 7 thiên quý (7x7 = 49) lúc đó mạch nhâm yếu, mạch xung kém, thiên quý cạn hết, kinh nguyệt không còn, nên thân thể yếu đuối, Con trai lúc 8 tuổi thận khí thực, tóc tốt, răng thay, 16 tuổi thận khí thịnh thiên quý đến, tinh khí đầy, 24 tuổi thận khí điều hoà, thân thể cường tráng mạnh khoẻ, 64 tuổi thận khí kém, tóc rụng, răng khô, lục phủ ngũ tạng đều suy yếu, thiên quý cạn nên râu tóc bạc, người mệt mỏi..." Thận âm và thận dương, nương tựa vào nhau, chế ước lẫn nhau giữ thế bình quân về âm dương. Nếu thận hư không có hiện tượng hàn hay nhiệt thì gọi là thận tinh hư hay thận khí hư. Nếu có hiện tượng nội nhiệt là do thận âm hư. Nếu có hiện tượng ngoại hàn (sợ lạnh, tay chân lạnh) là do thận dương hư,

        • 3-Chủ về khí hoá nước

          Thận khí có chức năng khí hoá nước tức là đem nước do đồ ăn uống đưa tới tưới cho tổ chức cơ thể và bài tiết nước ra ngoài.

          Sự chuyển hoá nước trong cơ thể do 3 tạng phụ trách: tỳ vận hoá hấp thu đưa lên phế, phế túc giáng xuống thận, ở thận được khí hoá những chất trong (có ích) được lên phế phân bố đi toàn thân, những chất đục được đưa xuống bàng quang thải ra ngoài. Vì vậy trên lâm sàng, căn cứ vào vị trí trở ngại, người ta chữa chứng phù thũng ở tỳ, ở phế hay ở thận.

        • 4-Chủ về xương tuỷ, thông với não và vinh nhuận ra tóc

          Tinh được tàng trữ ở thận, tinh sinh tuỷ, tuỷ vào trong xương, nuôi dưỡng xương, nên gọi là thận chủ cốt sinh tuỷ. Nếu thận hư, làm sự phát dục của cơ thể giảm sút gây hiện tượng chậm mọc răng, chậm biết đi, xương mềm yếu v.v... Tuỷ ở cột sống lên não, thận sinh tuỷ, nên gọi là thận thông với não, không ngừng bổ sung tinh tuỷ cho não. Thận hư (thường do tiên thiên) làm não không phát triển sinh các chứng: trí tuệ chậm phát triển, tinh thần đần độn, kém sự thông minh v.v... Huyết do tinh sinh ra, tinh tàng trữ ở thận, tóc là sản phẩm "thừa ra" của huyết, được huyết nuôi dưỡng, vì vậy thận là cãn nguyên sinh ra tóc. Sự thịnh suy của thận có quan hệ mật thiết tới tóc như bẩm sinh thận khí bất túc thì tóc mọc thưa thớt, thanh niên khoẻ mạnh thì tóc tốt nhuận, người già thận khí yếu thì tóc bạc, rụng tóc v.v... vì vậy nói: thận vinh nhuận ra ở tóc.

        • 5-Chủ nạp khí

          Không khí do phế hít vào được giữ lại ở thận gọi là sự nạp khí của thận. Nếu thận hư không nạp được phế khí làm phế khí nghịch lên gây chứng ho hen, khó thở. Trên lâm sàng người ta chữa chứng hen suyễn, chứng ho ở người già, bằng phương pháp bổ thận nạp khí.

        • 6-Khai khiếu ra tai, tiền âm và hậu âm

          Tai do thận tinh nuôi dưỡng, thận hư sẽ gây tai ù, tai điếc, ở người già thận khí, thận tinh suy yếu nên hay gặp chứng ù tai, điếc.

          Tiền âm là nơi bài tiết nước tiểu, bộ phận sinh dục nam hay nữ, thận chủ về khí hoá bài tiết nước tiểu và sự sinh dục vì vậy gọi là thận chủ về hậu âm. Thận hư hay gặp chứng đi tiểu luôn ở người già, chứng đái dầm ở trẻ em chứng di tinh, ra khí hư ...

          Hậu âm là nơi đại tiện ra phân , do tạng tỳ đảm nhiệm. Nhưng tỳ dương được thận khí hoá để bài tiết phân ra ngoài nên còn gọi là thận chủ về hậu âm. Nếu thận khí hư hay gặp chứng đại tiện lỏng, đại tiện ở người già.

          Hậu âm và tiền âm thường quản lý đại tiện và tiểu tiện nên còn nói "thận chủ nhị tiện”.

        • 7-Khác

          Ngoài ra thận thuỷ còn sinh ra can mộc và khắc tâm hoả, có quan hệ biếu lý với bàng quang.

    • D-Lục phủ

      • I-Định nghĩa

        Phủ là các bộ phận của cơ thể có nhiệm vụ thu nạp, tiêu hoá, hấp thụ, chuyển vận các chất từ đồ ăn uống và bài tiết các chất cặn bã của cơ thể ra ngoài. Có 6 phủ: đởm, vị, tiểu trường, đại trường, bàng quang và tam tiêu.

      • II-Đởm

        Đởm có quan hệ biểu lý với can, chứa chất mật (tinh chấp) do can bài tiết. Cổ nhân nói: "khí thừa của can tràn vào mật, tụ lại thành tinh chấp". Mật giúp cho việc tiêu hoá đồ ăn. Chất mật có màu xanh, vàng và vị đắng. Khi có bệnh ở đởm thường xuất hiện chứng vàng da, miệng đắng, nôn mửa ra chất đắng. Đởm còn có chức năng về tinh thần, chủ về quyết đoán. Can và đởm có quan hệ biểu lý, can chủ về mưu lự, đởm chủ về quyết đoán là cơ sở của lòng dũng cảm, tinh thần dám nghĩ dám làm. Các bệnh về can đỏm hay phối hợp với nhau.

      • III-Vị

        Vị chứa đựng và làm nhừ đồ ăn, đưa xuống tiểu trường. Tỳ và vị có liên quan biểu lý với nhau, đều giúp cho sự vận hoá đồ ăn, nên gọi chung là "gốc của hậu thiên". Trên lâm sàng, công tác chẩn đoán và chữa bệnh đều rất chú trọng đến sự thịnh suy của tỳ vị. Khí của tỳ vị gọi tắt là "vị khí" dùng để tiên lượng sự phát triển tốt hay xấu của bệnh và dự kiến của kết quả công tác chữa bệnh, nên người xưa có nói: "vị khí là gốc của con người”, "còn vị khí sẽ sống, hết vị khí sẽ chết". Bảo vệ vị khí là một nguyên tắc chữa bệnh của YHCT.

      • IV-Tiểu trường

        Tiểu trường có nhiệm vụ phân thanh, giáng trọc, Thanh (chất trong) là chất tinh vi của đồ ăn được hấp thụ ở tiểu trường, qua sự vận hoá của tỳ đem đi nuôi dưỡng toàn thân, cặn bã sẽ được đưa xuống bàng quang để bài tiết ra ngoài. Trọc (chất đục) là cặn bã của đồ ăn được tiểu trường đưa xuống đại trường. Khi tiểu trường có bệnh, việc phân thanh giáng trọc bị trở ngại gây các chứng: sống phân, ỉa chảy, tiểu tiện ít v.v...

      • V-Đại trường

        Đại trường chứa đựng và bài tiết các chất cặn bã, có quan hệ biểu lý với phế.

      • VI-Bàng quang

        Bàng quang chứa đựng và bài tiết nước tiểu thông qua sự khí hoà và sự phối hợp của tạng thận. Nếu sự hoá khí của thận không tốt sẽ gây bí tiểu tiện, đái rắt hoặc đái nhiều lần, tiểu tiện không tự chủ v.v...

      • VII-Tam tiêu

        Tam tiêu gồm thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu. Thượng tiêu từ miệng xuống tâm vị dạ dày có tạng tâm và phế. Trung tiêu từ tâm vị dạ dày đến môn vị có tạng tỳ và phủ vị. Hạ tiêu từ môn vị dạ dày xuống hậu môn có tạng can và thận. Sự hoạt động của tam tiêu biểu hiện ở sự khí hoá và sự vận chuyển đồ ăn; ở thượng tiêu: phế chủ hô hấp, phân bố khí và chất dinh dưỡng vào huyết mạch được tâm khí đưa đi toàn thân; ở trung tiêu tỳ vị vận hoá hấp thu đồ ăn và đưa nước lên phế; ở hạ tiêu có sự phân biệt thanh trọc, tinh tàng trữ ở thận, các chất cặn bã được thải ra ngoài bằng đường đại tiện và tiểu tiện. Người ta còn nói tam tiêu chủ việc bảo vệ các tạng phủ trong cơ thể.

    • E-Quan hệ giữa các tạng phủ

      • I-Quan hệ giữa tạng với tạng

        • 1-Nội dung

          Mỗi một tạng hay phủ có chức năng riêng biệt, nhưng chúng có quan hệ với nhau theo quy luật vừa đối lập vừa nương tựa với nhau để tạo cho cơ thể thành một khối thống nhất về cấu tạo và chức năng.

        • 2-Tâm và Phế

          Tâm chủ huyết, phế chủ khí. Tâm và phê phối hợp làm khí huyết vận hành duy trì các hoạt động cơ thể. Khí thuộc dương, huyết thuộc âm, khí thúc đẩy huyết vận hành, huyết đi kéo theo khí, nếu khí không thúc đẩy huyết sẽ ngưng lại gây ứ huyết, nếu không có huyết, khí mất chỗ dựa phân tán mà không thu lại được.

          Trên lâm sàng có các chứng bệnh:

          1. **Phế khí hư nhược, tông khí trong tâm mạch không đầy đủ gây ra tâm phế đều hư, tâm khí không thúc đẩy âm huyết, gây ứ huyết, làm đau vùng ngực (hay gặp ở các bệnh xơ cứng mạch vành).
          2. **Tâm khí không đầy đủ gây huyết ứ làm trở ngại đến phế mạch làm phế khí không tuyên giáng gây chứng hen suyễn (như hen tim).
          3. **Tâm chủ về hoả, tâm hoả vượng ảnh hưởng đến phế âm một mặt xuất hiện các chứng tâm phiền, mất ngủ..., một mặt xuất hiện các chứng ho, ho ra máu...
        • 3-Tâm và Tỳ

          Tâm chủ huyết, tỳ sinh huyết. Nếu tỳ khí hư không vận hoá được thì tâm huyết sẽ kém gây hiện tượng hồi hộp, hay quên, mất ngủ, sắc mặt xanh gọi là chứng tâm tỳ hư.

        • 4-Tâm và Can

          Can tàng huyết, tâm chủ huyết. Cả hai tạng phối hợp tạo thành sự tuần hành của huyết. Trên lâm sàng hay thấy xuất hiện chứng can, tâm âm hư hay can, tâm huyết hư: hoảng hốt, hồi hộp, sắc mặt xanh, hoa mắt, chóng mặt, móng tay không nhuận. Can chủ sơ tiết, tâm chủ về thần chí. Hoạt động tinh thần chủ yếu do hai tạng tâm và can phụ trách, can và tâm do huyết nuôi dưỡng, khi chúng có bệnh ngoài các chứng trạng về huyết kể trên còn có các chứng trạng về tinh thần như mất ngủ hay quên, hồi hộp, sợ hãi, giận giữ...

        • 5-Tâm và Thận

          Tâm ở trên thuộc hoả, thuộc dương; thận ở dưới thuộc thuỷ, thuộc âm. Hai tạng giao nhau để giữ được thế quân bình gọi là "thuỷ hoả ký tế" hay "tâm thận tương giao". Trên lâm sàng nếu thận thuỷ không đầy đủ, không chế ước được tâm hoả gây các chứng: hồi hộp, mất ngủ, nằm mê, miệng lưỡi lở loét gọi là chứng "tâm thận bất giao" hay "âm hư hoả vượng".

        • 6-Phế và Tỳ

          Phế chủ khí, tỳ chủ khí hậu thiên, cả 2 tạng có liên quan với nhau mật thiết. Chứng khí hư trên lâm sàng thường xuất hiện: thở ngắn, gấp, nói nhỏ, lười nói (thuộc phế khí hư), mỏi mệt, ăn kém, ia lỏng (thuộc tỳ khí hư).

        • 7-Phế và Thận

          Phế chủ khí, thận nạp khí. Thận hư không nạp được phế khí gây chứng ho, hen suyễn…

        • 8-Can và Tỳ

          Can chủ về sơ tiết, tỳ chủ vận hoá, sự thăng giáng của tỳ vị có quan hệ đến sự sơ tiết của can, Nếu sức tiết của can bị trở ngại sẽ làm cho sự thăng giáng của tỳ vị trở nên bất thường hay gây các chứng: ngực sườn đầy tức không muốn ăn, đầy bụng, ợ hơi... hay gặp ở các bệnh loét dạ dày tá tràng, viêm đại tràng…

        • 9-Thận và Tỳ

          Thận dương hay thận khí giúp cho tỳ vận hoá được tốt, nếu thận dương hư thì tỳ dương cũng hư gây các chứng ỉa chảy ở người già, viêm thận mạn tính (âm thuỷ).

        • 10-Can và Thận

          Can tàng huyết, thận tàng tinh. Can huyết do thận tinh nuôi dưỡng, nếu thận tinh không đầy đủ sẽ làm can huyết giảm sút. Thận có thận âm, thận dương, can có can âm, can dương. Nếu thận âm hư không nuôi dưỡng được can âm, thì can dương vượng lên như trong bệnh cao huyết áp xuất hiện các chứng: Nhức đầu, chóng mặt, hoa mắt, mặt đỏ...

      • II-Quan hệ giữa tạng với phủ

        • 1-Tâm và Tiểu trường

          Tâm và tiểu trường có liên quan biểu lý với nhau, trên lâm sàng nếu tâm nhiệt (sốt cao) thường gây các chứng đái ít, đái đỏ nước tiểu nóng... Phương pháp chữa là thanh tâm lợi niệu.

        • 2-Tỳ và Vị

          Tỳ và vị là hai cơ quan giúp cho sự vận hoá đồ ăn. Tỳ chủ vận hoá, vị chủ thu nạp, tỳ ưa táo ghét thấp, vị ưa thấp ghét táo, tỳ lấy thăng làm thuận, vị lấy giáng làm hoà. Như vậy tính chất của tỳ vị đối lập nhau giữa táo và thấp, giữa thăng và giáng nhưng lại thống nhất với nhau, bổ sung cho nhau để giúp cho việc tiêu hoá được bình thường, Khi tỳ vị có bệnh, sự thăng giáng có thể đảo nghịch: như tỳ khí đáng lẽ đưa thanh khí (trong) lên trên, lại đưa xuống dưới gọi là chứng tỳ hư hạ hãm gây các bệnh ỉa chảy, sa sinh dục, sa trực tràng, băng huyết, rong huyết... tỳ khí đáng lẽ đưa trọc khí (đục) đi xuống, lại đưa lên trên gây các chứng nôn mửa, nấc... Tỳ vị có bệnh gây nên sự đảo lộn vể thấp và táo. Tỳ ghét thấp nhưng do tỳ hư không vận hoá được thuỷ thấp làm thuỷ thấp đình lại gây các chứng mệt mỏi, phù thũng, ỉa lỏng. Vị ghét táo nhưng do vị hoả quá mạnh làm tân dịch bị khô gây nên vị âm hư có các chứng táo bón, loét miệng, chảy máu chân răng...

        • 3-Thận và Bàng quang

          Sự khí hoá ở bàng quang tốt hay xấu đều dựa vào thận khí thịnh hay suy. Nếu thận kém sẽ gây chứng di niệu, tiểu tiện không tự chủ, đái dầm…


Các bài tin khác

Các tin mới cập nhật

577 Bài thuốc chữa trị bệnh thường gặp 17/10/2024
Hướng dẫn cách trồng cây thảo dược tại nhà đơn giản 16/08/2024
Cây dùng để bó gãy xương hiệu quả mà không phải ai cũng nói cho bạn biết 16/08/2024
Cây cà dại hoa tráng hiếp có thể là giải pháp tự nhiên mà bạn đang tìm kiếm cho Viêm thấp khớp 16/08/2024
Bí quyết "độc chiêu" của ông bà ta chữa bệnh K dạ dày 15/08/2024
Bí quyết chữa lành dạ dày bằng thiên nhiên 15/08/2024
ĐỀ CƯƠNG BỆNH HỌC (NỘI, NGOẠI, SẢN, NHI, LÂY) 02/08/2024
Điều trị Sốt xuất huyết 02/08/2024
Cây thiên niên kiện có công dụng gì trong điều trị phong tê thấp mỏi vai gáy 27/07/2024
Công dụng của cây bướm bạc trong việc điều trị giảm nhức xương khớp, bạch đới, khi hư ở phụ nữ 27/07/2024
Giảm nhức xương khớp bằng cây đại bi 27/07/2024
Mộc hương nam cây thuốc có công dụng cho bệnh viêm dạ dày 27/07/2024
Tầm gửi của cây chè dây có công dụng trong việc làm mát gan thận 27/07/2024
Các công dụng của cây sói rừng 23/07/2024
cách trị rận chấy 23/07/2024
Câu hỏi Đông dược 22/07/2024
Cách pha trà thảo mộc từ các loại trà trái cây 19/07/2024
Hướng dẫn pha Trà hoa bụp giấm cho cả nhà 19/07/2024
Công thức pha Trà bạc hà mật ong 19/07/2024
CHƯƠNG 1: CÁC BỆNH THUỘC HỆ TUẦN HOÀN 18/07/2024
Zalo
favebook